NGÀNH CNTT TUYỂN SINH NHIỀU CHỈ TIÊU NGÀNH CNTT, CNTT VIỆT NHẬT VÀ KHOA HỌC DỮ LIỆU

Tin tức

'Rối não' khi công nghệ AI trở thành công cụ lừa đảo

on .

Bạn có biết chỉ với một đoạn âm thanh vài giây, kẻ lừa đảo có thể giả mạo giọng nói của bạn để tống tiền người thân?

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang dần thay đổi cách chúng ta sống và làm việc, nó mang lại những đột phá công nghệ không tưởng. Tuy nhiên, công nghệ này cũng đang bị kẻ xấu lạm dụng để tạo ra các chiêu trò lừa đảo tinh vi.

Gia tăng lừa đảo bằng AI

Trong thời đại số hóa, lừa đảo qua mạng không chỉ đơn thuần là những email giả mạo thô sơ hay các cuộc gọi mạo danh đơn giản. Giờ đây kẻ gian có thể tận dụng AI để thực hiện các chiêu trò lừa đảo tinh vi hơn, như deepfake (công nghệ sử dụng AI và machine learning (học máy) để tạo ra các video, hình ảnh hoặc âm thanh giả mạo có độ chân thực rất cao).

[TMA Industry Internship] Tuyển Thực tập sinh tháng 04/2025 - Đại Học Công Nghệ Thông Tin, Khoa Khoa Học và Kỹ Thuật Thông Tin

on .

Công ty TMA Solutions thông báo về chương trình tuyển sinh viên thực tập Khóa 48, với thời gian bắt đầu từ tháng 04/2025.

Sinh viên quan tâm vui lòng gửi hồ sơ bản mềm về địa chỉ email:  This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.  trước ngày 16/05/2025. Hồ sơ bao gồm:

  • CV tiếng Anh
  • Giấy giới thiệu và bảng điểm mới nhất có xác nhận từ Nhà trường
  • Chứng chỉ TOEIC/IELTS (nếu có)

Trân trọng./.

TMA

Attachments:
Download this file (Tuyen dung Thuc tap sinh khoa 48.jpg)Tuyen dung Thuc tap sinh khoa 48.jpg[ ]837 kB

Việt Nam cần tăng gấp đôi số cáp quang hiện có

on .

Từ nay đến hết năm 2030, Việt Nam dự định bổ sung thêm ít nhất 8 tuyến cáp quang biển nhằm đảm bảo an toàn của hạ tầng viễn thông quốc tế không bị gián đoạn.

Theo thống kê từ Hiệp hội Internet Việt Nam, số lượng người dùng Internet tại Việt Nam được dự báo sẽ đạt đến 100,19 triệu người dùng vào năm 2029.

Ước tính quy mô nền kinh tế Internet Việt Nam đạt 36 tỷ USD trong năm nay, tăng 16% so với năm ngoái. Thương mại điện tử bán lẻ vẫn tiếp tục là trụ cột khi đóng góp 22 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ và chiếm 61% tổng quy mô nền kinh tế Internet.

Tại Internet Day 2024, ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền thông) chia sẻ, hạ tầng số tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, mở ra cơ hội mới cũng như không gian phát triển mới cho các doanh nghiệp công nghệ và viễn thông.

Hạ tầng số là chiến lược cho phát triển kinh tế - xã hội, không kém phần quan trọng khi so sánh với hạ tầng giao thông, hạ tầng điện…cần được đầu tư trước và có khả năng mở rộng trong tương lai, góp phần vào quá trình đổi mới sáng tạo, từ đó đưa Việt Nam phát triển bứt phá trong thời đại số.

"Từ nay đến năm 2030, Việt Nam dự định bổ sung thêm ít nhất 8 tuyến cáp quang biển nhằm đảm bảo tính bền vững, an toàn của hạ tầng viễn thông quốc tế không bị gián đoạn, cũng như tăng cường năng lực băng thông kết", Cục trưởng Cục Viễn thông cho hay.

Con đường trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực về AI

on .

Các doanh nghiệp Việt Nam đang ở vị thế thuận lợi đón nhận những cơ hội kinh tế lớn, tăng năng suất và mở rộng sang các thị trường mới nhờ ứng dụng các sản phẩm và giải pháp tích hợp trí tuệ nhân tạo...

 

Theo Báo cáo tác động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng số tại Việt Nam của Access Partnership phát hành gần đây, hành trình phát triển kinh tế của Việt Nam rất ấn tượng. Từ một trong những quốc gia có thu nhập thấp nhất, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng gấp 6 lần chỉ trong chưa đầy 40 năm. Với đà phát triển này, Việt Nam đang đặt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.

Tại hội thảo “Kiến tạo tương lai AI cho Việt Nam” gần đây, ông Andrew Ure, Giám đốc về Chính sách công và Quan hệ chính phủ của Google, cho rằng Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI). Nền kinh tế Việt Nam sẽ đi lên với “chất xúc tác” là AI.

Cụ thể, Việt Nam có dân số trẻ, thành thạo sử dụng các công nghệ số, đây là một tài sản lớn, vì AI phụ thuộc nhiều vào hạ tầng và kỹ năng số. Tuy nhiên, theo đại diện Google, để khai thác tối đa tiềm năng AI, cần nhiều thứ hơn là chỉ đầu tư vào công nghệ.

AI KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI DO CÁC QUỐC GIA GIÀU CÓ DẪN ĐẦU

“Có thể hình dung hệ sinh thái AI như một kim tự tháp ngược với ba lớp chính: lớp nền tảng là hạ tầng phần cứng, tính toán và bộ xử lý đồ họa (GPU); lớp ứng dụng là người dùng cuối sử dụng các công nghệ AI; lớp quan trọng nhất chính là lớp xây dựng - nơi tạo ra nhiều giá trị nhất. Đây là khu vực mà các nhà phát triển sẽ sử dụng các mô hình nền tảng, dù là mã nguồn mở hay thương mại, để tạo ra các ứng dụng AI”, ông Andrew Ure giải thích.

Lớp xây dựng này chính là các nhà phát triển ứng dụng và doanh nghiệp nhỏ, những người tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Lớp xây dựng trong hệ sinh thái AI của Việt Nam dự kiến sẽ phát triển mạnh mẽ nhờ vào các điều kiện nhân khẩu học và chính sách thuận lợi. Tầng này hứa hẹn sẽ tạo ra giá trị kinh tế đáng kể và mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới. Chính vì vậy, AI được dự báo sẽ kích thích đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tại Việt Nam.

“Nhìn lại lịch sử, hầu hết các công nghệ mới khi được triển khai đều rất tốn kém và bị giới hạn bởi vấn đề phân phối. Điều này thường khiến các quốc gia giàu có trở thành những nước đi đầu trong việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ”, ông Ure chia sẻ.

Tuy nhiên, cách AI được triển khai lại hoàn toàn khác biệt. Thay vì phụ thuộc vào phần cứng, AI chủ yếu được vận hành qua đám mây (cloud-driven). Do đó, ông Ure cho biết: “AI không nhất thiết phải do các quốc gia giàu có dẫn đầu. Chúng tôi tin rằng Việt Nam đang có tiềm năng to lớn trong lĩnh vực AI.

Tại Google, chúng tôi tin rằng AI có tiềm năng trở thành một lực lượng đột phá, mang lại lợi ích to lớn cho toàn thế giới. Công nghệ này không chỉ giúp giải quyết các thách thức cấp bách mà còn mở ra nhiều cơ hội mới, đặc biệt cho người dân Việt Nam. Điều quan trọng là phải hiện thực hóa tiềm năng đó bằng cách biến các ý tưởng trừu tượng thành những ứng dụng cụ thể và khai thác sức mạnh chuyển đổi mà AI mang lại”.

CƠ HỘI ĐẠT 1.890 NGHÌN TỶ ĐỒNG VÀO NĂM 2030

“AI có thể mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, từ ngành bán lẻ đến y tế. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tiềm năng lợi ích kinh tế mà AI mang lại cho Việt Nam về mặt tăng trưởng doanh thu và tiết kiệm chi phí là rất đáng kể”, ông Abhineet Kaul, Giám đốc Dịch vụ khách hàng của Access Partnership, cho hay.

 

Theo ông Abhineet Kaul, các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang ở vị thế thuận lợi để đón nhận những cơ hội kinh tế lớn, bao gồm việc tăng năng suất và mở rộng sang các thị trường mới nhờ ứng dụng các sản phẩm và giải pháp có tích hợp AI. Dự kiến các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng, bán lẻ và cơ sở hạ tầng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất.

Khảo sát của Công ty dịch vụ tài chính Finastra vào năm 2023 cho thấy có 44% tổ chức tài chính tại Việt Nam đã xây dựng các sáng kiến để triển khai hoặc nâng cấp công nghệ AI trong 12 tháng qua. Về đầu tư mạo hiểm, Việt Nam hiện đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á về quy mô đầu tư, với sự tăng trưởng mạnh mẽ trong các khoản vốn đầu tư vào AI.

“Điều này không chỉ phản ánh mức độ quan tâm lớn của các doanh nghiệp trong việc áp dụng các công cụ có tích hợp AI, mà còn cho thấy tiềm năng mà các nhà đầu tư nhìn thấy trong đổi mới sáng tạo liên quan đến AI tại Việt Nam, báo hiệu triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ”, ông Abhineet Kaul nhận định.

Theo nghiên cứu của Access Partnership, tiềm năng từ AI tại Việt Nam là rất lớn, với lợi ích kinh tế ước tính lên tới 1.890 nghìn tỷ đồng (79,3 tỷ USD) cho các doanh nghiệp vào năm 2030, nếu các công cụ AI được áp dụng rộng rãi.

Người dân Việt Nam cũng có mức độ ủng hộ công nghệ AI cao đáng kể, với 70% người lao động Việt Nam đã áp dụng các công cụ AI tạo sinh vào công việc và thêm 11% số người lao động dự kiến sẽ áp dụng trong thời gian tới. 54% người lao động cho rằng AI nâng cao hiệu suất và cải thiện chất lượng công việc trong các lĩnh vực như viết lách, thiết kế và phát triển ý tưởng; 45% sử dụng AI để tự động hóa các đầu việc thường nhật, giúp họ có thêm thời gian tập trung vào các nhiệm vụ chiến lược hơn. Tinh thần tích cực này tạo ra môi trường thuận lợi cho việc áp dụng và phát triển các ứng dụng AI trên toàn nền kinh tế.

CHIẾN LƯỢC AI CẦN THỰC HIỆN TÁO BẠO, CÓ TRÁCH NHIỆM 

Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, ông Cù Kim Long, Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết Việt Nam hiện đang triển khai chương trình chuyển đổi số quốc gia, được xem là "cốt lõi" của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Để góp phần thực hiện thành công chương trình này, Đảng và Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc, đặc biệt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, chính sách, như Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (2021-2030), nhằm đưa Việt Nam trở thành trung tâm toàn cầu về đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng các giải pháp AI. Đây là dấu hiệu cho thấy Chính phủ đang tập trung vào việc khai thác lợi ích của AI cho tương lai của Việt Nam.

Trong thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương cũng đã triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI vào các công việc cụ thể. Chẳng hạn, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ứng dụng các Trợ lý ảo tiếng Việt (TLA) dựa trên công nghệ xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP) và mô hình ngôn ngữ nhỏ (SLM) hỗ trợ cho các cán bộ xử lý công việc hàng ngày; Bộ Tài chính đã áp dụng các giải pháp AI trong công tác hải quan và thuế để quản lý rủi ro và ngăn ngừa gian lận; Hà Nội và một số địa phương đã sử dụng giải pháp Camera AI để giám sát các hoạt động theo thời gian thực trên địa bàn tỉnh, thành phố...

Những ứng dụng AI này đã bước đầu góp phần giúp nâng cao hiệu quả công việc hàng ngày của các cán bộ, đồng thời tối ưu hóa các quy trình cung cấp dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp.

 

Ông Cù Kim Long, Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin, Bộ Khoa học và Công nghệ

Tuy vậy, theo ông Cù Kim Long, trong quá trình nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI tại Việt Nam, các nhóm nghiên cứu, doanh nghiệp số và các cơ quan đơn vị cũng còn gặp phải nhiều khó khăn, trong đó có ba thách thức chủ yếu sau.

Thứ nhất, nguồn dữ liệu huấn luyện các mô hình AI vẫn khó tiếp cận và chất lượng dữ liệu thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế (đặc biệt dữ liệu miền tiếng Việt).

Thứ hai, hạ tầng số (đặc biệt là các hạ tầng thu thập, phân tích xử lý dữ liệu và hạ tầng tính toán) phục vụ triển khai các mô hình, thuật toán AI còn rất hạn chế. Các hạ tầng được đầu tư, trang bị tại nhiều lab nghiên cứu AI chỉ phù hợp với các bài toán quy mô nhỏ và cho hệ thống hoạt động riêng lẻ.

Do đó, nhiều mô hình AI đã được nghiên cứu trong môi trường lab được công bố với kết quả tốt, nhưng khi triển khai ứng dụng vào thực tiễn với bài toán quy mô lớn thì hiệu quả chưa cao, thậm chí còn gặp khó khăn khi triển khai thực tế vì các yêu cầu kết nối liên thông, chia sẻ, phân phối dữ liệu với các hệ thống khác đang vận hành đảm bảo hoạt động liên tục ổn định và an toàn dữ liệu.

Thứ ba, nguồn nhân lực thực hiện nhiệm vụ phát triển sản phẩm AI cũng là một thách thức không nhỏ. Để đào tạo, huấn luyện tăng cường đội ngũ kỹ sư AI thường phải mất 3-5 năm trong môi trường lab chuyên nghiệp, trong khi đó các chuyên gia AI phải dành hàng chục năm nghiên cứu chuyên sâu thì mới có khả năng làm chủ nghiên cứu tạo ra sản phẩm và giải pháp AI chất lượng.

Hơn nữa, chuyên gia AI cũng phải là người thường xuyên "lăn lộn" tham gia triển khai các hệ thống tác nghiệp trong thực tế tại các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp thì mới có thể triển khai được các giải pháp AI ở quy mô lớn một cách đồng bộ, hiệu quả.

Theo ông Cù Kim Long, để vượt qua thách thức trên, Việt Nam rất cần hình thành các mô hình hợp tác "đa nhà", gồm: Nhà nước (ban hành văn bản chính sách, hướng dẫn nghiên cứu, triển khai ứng dụng AI); Nhà doanh nghiệp số (sản xuất sản phẩm AI); Nhà trường (đào tạo nhân lực AI); Nhà nghiên cứu (phát triển mô hình/thuật toán AI); Nhà đầu tư (kinh phí cho nghiên cứu, phát triển các sản phẩm AI); Nhà phân phối (đưa sản phẩm, giải pháp AI ra thị trường); Nhà ứng dụng (sử dụng các sản phẩm AI).

Năm 2025: Thách thức chống lừa đảo ngân hàng bằng công nghệ

on .

Các ngân hàng ngày càng hiểu rằng việc mở rộng hoạt động phải đi đôi với an toàn bảo mật. Năm 2025, phần lớn các ngân hàng cho biết sẽ dốc hầu bao đầu tư mạnh vào các giải pháp công nghệ để chống lừa đảo, bảo vệ dữ liệu và người dùng trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ...

Theo Ernst & Young (EY), giai đoạn 2021-2024 chứng kiến sự sụt giảm mạnh trong lưu thông tiền mặt tại Việt Nam, từ mức 12,11% (vào tháng 1/2021) xuống còn 9,98% (vào tháng 4/2024). EY cho biết để giảm khoảng 1% lưu thông tiền mặt, Việt Nam đã từng mất một thập kỷ, từ năm 2011 đến năm 2021, trong khi ba năm qua, lưu thông tiền mặt đã giảm khoảng 3%.

Theo khảo sát của Công ty xử lý các khoản thanh toán cho các tổ chức tài chính Worldpay, tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán hàng đầu tại các điểm bán hàng ở Việt Nam vào năm 2023 với ước tính 38% giá trị giao dịch. Con số này đã giảm một nửa so với mức 85% giá trị thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt vào năm 2019. Ước tính giá trị giao dịch tiền mặt tại các điểm bán hàng sẽ giảm xuống còn 24% vào năm 2027.

LƯU THÔNG TIỀN MẶT GIẢM 3% TRONG BA NĂM

Ngân hàng Nhà nước cho biết đến cuối năm 2024, trên 80% tổ chức tín dụng đã xây dựng chiến lược, kế hoạch và đang thực hiện triển khai chuyển đổi số. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian thanh toán đã ứng dụng các công nghệ số tiên tiến để tối ưu hóa, đơn giản hóa quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động và trải nghiệm giao dịch khách hàng. Đồng thời đánh giá, phân loại khách hàng, quyết định giải ngân và tích hợp với nhiều hệ sinh thái đối tác khác nhau trong nhiều lĩnh vực.

Một số dịch vụ cơ bản đã được thực hiện hoàn toàn trên kênh số như mở tài khoản, thanh toán, chuyển tiền, tiền gửi tiết kiệm... Nhiều ngân hàng đạt tỷ lệ trên 90% giao dịch thực hiện trên kênh số.

Các ngân hàng cũng thúc đẩy nghiên cứu và triển khai nhiều ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và các công nghệ số trong cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.

Nhiều tổ chức tín dụng có hiệu quả hoạt động tốt nhờ tích cực chuyển đổi số, giảm tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) xuống ngưỡng 30%.

10 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm 2023, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 57,54% về số lượng và 34,54% về giá trị; qua kênh Internet tăng 51,15% về số lượng và 33,94% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 55,54% về số lượng và 34,91% về giá trị, giao dịch qua QR Code tăng 106,91% về số lượng và 109,67% về giá trị; qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 7% về số lượng và 33,77% về giá trị; hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử tăng 31,60% về số lượng và 16,48% về giá trị.

Giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt bình quân ngày đạt kỷ lục trên 26,2 triệu giao dịch với giá trị trên 166.000 nghìn tỷ đồng.

Ông Phạm Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Thanh toán, cho biết chỉ sau một tháng triển khai xác thực sinh trắc học theo Quyết định 2345/QĐ-NHNN, trong tháng 8/2024, số vụ khách hàng bị lừa mất tiền giảm khoảng 50% so với mức trung bình của 7 tháng đầu năm 2024.

Theo lãnh đạo Vụ Thanh toán, tính đến ngày 1/11/2024, có 51 tổ chức tín dụng, 31 trung gian thanh toán đã phối hợp với Bộ Công an để triển khai ứng dụng thẻ căn cước, đối chiếu thông tin sinh trắc học với căn cước công dân gắn chip thông qua ứng dụng điện thoại; 57 tổ chức tín dụng đã phối hợp với các doanh nghiệp được Bộ Công an cấp phép để triển khai ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip qua thiết bị tại quầy…

Sau 5 tháng triển khai xác thực sinh trắc học từ nguồn Cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư (thông qua căn cước công dân gắn chip, VneID), đã có hơn 63,6 triệu hồ sơ khách hàng được thu nhập, đối chiếu thông tin sinh trắc học.

Ngoài ra, ông Tuấn cho biết ngành ngân hàng cũng tích cực phối hợp với C06 (Bộ Công an) kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Hiện nay, có 9 tổ chức tín dụng đã hoàn thành kết nối luồng liên kết tài khoản an sinh xã hội với tài khoản ngân hàng phục vụ cho chi trả, trong đó đã liên kết được hơn 60,3 nghìn tài khoản an sinh xã hội.

THÁCH THỨC TRONG BẢO VỆ DỮ LIỆU HỆ THỐNG

Theo ghi nhận của VnEconomy, quy định xác thực sinh trắc học nhằm phòng chống lừa đảo được giới công nghệ hưởng ứng và đánh giá cao.

“Quy định này không chỉ giảm tình trạng lừa đảo mà còn hiệu quả trong việc phát hiện tiền bẩn, các phi vụ rửa tiền bất hợp pháp”, ông Ngô Minh Hiếu, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia, nhận định.

Ông Nguyễn Tuấn Khang, Giám đốc phần mềm IBM Đông Nam Á, đồng tình với nhận định của chuyên gia an ninh mạng Ngô Minh Hiếu. “Lúc ban đầu có thể mọi người cảm thấy đôi chút phiền phức, nhưng giải pháp xác thực sinh trắc học cho thấy hiệu quả trong việc chống lừa đảo”, ông Khang thông tin.

Dẫu vậy, các chuyên gia lưu ý cuộc chiến chống lừa đảo là không có hồi kết. “Bên cạnh mặt được về tính năng thì chuyển đổi số khiến ngân hàng phải đối mặt với nhiều vấn đề mới. Sản phẩm nào mới ra cũng phải trải qua chu trình vòng đời; 1-2 năm đầu sản phẩm chưa trơn tru mà cần rất nhiều phản hồi của khách hàng để hoàn thiện. Trong khi đó, hacker luôn tìm ra những điểm chưa chuẩn trong sản phẩm mới để đưa ra phương thức tấn công mới vào hệ thống ngân hàng”, ông Nguyễn Việt Hà, Giám đốc Hoạch định an ninh thông tin, Techcombank, chia sẻ.

Ông Nguyễn Tuấn Khang lưu ý thêm rằng trong bối cảnh ngành ngân hàng đẩy mạnh triển khai ngân hàng mở (open banking), chia sẻ dữ liệu giữa tổ chức tài chính và bên thứ 3 thì vấn đề bảo mật càng trở nên bức bách. “Thứ mà hacker nhắm tới là thông tin, dữ liệu. Khi có dữ liệu thì họ mới tìm ra cơ sở, xây dựng kịch bản cho các bước lừa đảo tiếp theo…”, ông Khang cho biết.

Theo các chuyên gia, rủi ro mới mà ngân hàng phải đối mặt không chỉ công nghệ mà cả con người. Hiện nay, các đối tượng lừa đảo phát triển rất nhiều ứng dụng (app) lừa người dùng cài đặt. Tội phạm công nghệ đã phát triển những con virus chiếm đoạt thiết bị của người dùng. Khi người dùng cài đặt app của bọn chúng thì chúng có thể chiếm đoạt thiết bị, xóa luôn app của ngân hàng thật, sau đó cài lại app cũng là của ngân hàng nhưng đã được điều chỉnh theo ý của chúng, sau đó sử dụng chính khuôn mặt người dùng bằng ảnh tĩnh, công nghệ deepfake để lách sinh trắc học, tiến hành chiếm đoạt tiền.

Ông Đinh Trọng Du, chuyên gia Giải pháp doanh nghiệp, ngành hàng Thiết bị di động, Công ty TNHH Điện tử Samsung Vina, cũng cho rằng rủi ro con người hiện nay là lớn nhất, do đó cả Nhà nước và doanh nghiệp, ngân hàng phải chung tây xây dựng cộng đồng cùng nhau bảo đảm an toàn thông tin.

“Các giao dịch ngân hàng thực hiện trên thiết bị di động là chính nhưng rất nhiều khách hàng sử dụng nhiều loại thiết bị khác nhau, kể cả là các khách hàng tổ chức như doanh nghiệp, ngân hàng. Thậm chí thiết bị sử dụng một hệ điều hành nhưng lại có nhiều phiên bản, ví dụ hệ điều hành Androi đã có phiên bản 15 nhưng nhiều khách hàng vẫn dùng phiên bản 8, 9. Đây là lỗ hổng lớn để tội phạm mạng tấn công”, ông Du phân tích...

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 4+5-2025 phát hành ngày 27/1/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1194

Kỳ Phong

Nguồn: https://baomoi.com/nam-2025-thach-thuc-chong-lua-dao-ngan-hang-bang-cong-nghe-c51397683.epi