Xếp hạng tạp chí và tính điểm bài báo - Một giải pháp nâng cao chất lượng công bố

on .

Xep hang tap chi va tinh diem bai bao - Mot giai phap nang cao chat luong cong bo

PGS.TS Nguyễn Ngọc Châu (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật) đề xuất cách xếp hạng tạp chí và tính điểm đối với các công bố quốc tế cũng như trong nước như một biện pháp ngăn ngừa xu hướng công bố trên các tạp chí ISI thuộc tốp dưới.

Mô hình NAFOSTED: Thành công bước đầu và một số bất cập

NAFOSTED đã vận hành được bảy năm, một chặng thời gian đủ để đánh giá những gì làm được và những gì còn chưa phù hợp, cần cải tiến trên con đường hội nhập quốc tế. Có thể khẳng định những thành tựu mang tính đột phá do mô hình quản lý mới mang lại như: i) Số lượng công bố quốc tế trên tạp chí ISI tăng nhanh chóng, mỗi năm 15-20%; ii) Hiệu quả đầu tư (số kinh phí / số sản phẩm KH&CN là bài báo công bố quốc tế) cũng tăng nhanh; và iii) Điều quan trọng nhất: niềm tin của nhà khoa học, đặc biệt các nhà khoa học trẻ, vào mô hình quản lý mới mang lại sự công bằng, minh bạch trong việc đánh giá xét đầu vào và ra của đề tài tạo điều kiện cho nhiều nhà khoa học trẻ tham gia; iv) Từ lĩnh vực khoa học tự nhiên, qua một số năm thử nghiệm, đến nay khoa học xã hội và nhân văn cũng đã bắt đầu áp dụng công bố quốc tế để xét tài trợ.

Làm việc tại Viện Toán học: Cơ hội cho các bạn trẻ

on .

Lam viec tai Vien Toan hoc: Co hoi cho cac ban tre

Viện Toán học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, đã xây dựng một phương thức quản lý mới, nhằm tạo cho các sinh viên mới ra trường, các thạc sĩ, tiến sĩ trẻ cơ hội học tập, nghiên cứu tại Viện cũng như giới thiệu họ đi học, nghiên cứu, thực tập ở nước ngoài.

Mô hình đào tạo đại học và trên đại học thông thường trên thế giới hiện nay gồm các giai đoạn sau: Cử nhân (3-4 năm), Thạc sĩ (2 năm), Tiến sĩ (3-5 năm), và đặc biệt đối với một số ngành khoa học cơ bản, các tiến sĩ mới ra lò còn có cơ hội thực tập sau tiến sĩ, thời gian này thường kéo dài từ 3 tới 6 năm. Nghiên cứu sinh là giai đoạn bước đầu học cách nghiên cứu. Yêu cầu thông thường đối với một luận án tiến sĩ là thu được một số kết quả nghiên cứu mới. Tuy nhiên ở trong bước đầu này, vai trò của người thầy còn khá lớn trong việc đưa ra vấn đề, hướng giải quyết vấn đề và nhiều khi là cả kỹ thuật giải quyết vấn đề.

Bệnh án điện tử: Nguồn dữ liệu lớn vô giá của y học

on .

Benh an dien tu: Nguon du lieu lon vo gia cua y hoc

Từ vài năm gần đây, bệnh án điện tử (BAĐT) được đề cập đến như nguồn dữ liệu quý báu, có khả năng dẫn đến sự thay đổi sâu sắc trong công tác chăm sóc sức khỏe và nghiên cứu y học. Việc nghiên cứu BAĐT được đánh giá là cách làm hiệu quả để kết nối các nghiên cứu trong hai lĩnh vực Tin sinh học (Bioinformatics) với Tin y học (Biomedical Informatics).

Bệnh án điện tử là gì?

Mỗi người bệnh khi nằm viện đều bắt buộc phải có một bệnh án. Bệnh án ghi lại dữ liệu và thông tin về người bệnh, từ dữ liệu cơ bản như tên tuổi, giới tính, bệnh sử... đến dữ liệu lâm sàng (thu được qua "vọng văn vấn thiết" như lời khai bệnh, triệu chứng bác sĩ thấy khi khám bệnh, thuốc được chỉ định dùng...) và dữ liệu cận lâm sàng (như kết quả xét nghiệm, phim X-quang, chụp cắt lớp hay cộng hưởng từ MRI).

Niềm vinh dự và khích lệ đối với các nhà khoa học trẻ*

on .

Niem vinh du va khich le doi voi cac nha khoa hoc tre*

Việc trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu dành cho các nhà khoa học trẻ của Bộ Khoa học và Công nghệ không chỉ là niềm vinh dự và khích lệ cá nhân tôi, mà còn khích lệ các bạn đồng nghiệp cũng như các bạn trẻ.

Sau khi tốt nghiệp Khoa Toán-Tin, trường ĐHSP Hà Nội, tôi đã được công tác tại nhà trường làm giảng viên và làm luận văn Thạc sĩ, dưới sự hướng dẫn của GS. Nguyễn Văn Khuê. Được nhà trường tạo điều kiện, tôi đã sang Thụy Điển bảo vệ luận án Tiến sĩ tại trường ĐH Umea vào năm 2008, dưới sự hướng dẫn của GS. Urban Cegrell.

Giáo sư danh tiếng đề xuất cải tổ đại học

on .

Nối tiếp mạch bàn tròn của Hội Khoa học và chuyên gia VN tại Pháp về mô hình "đại học nghiên cứu", GS Lê Văn Cường, một tên tuổi lớn trong giới khoa học kinh tế tại Pháp và quốc tế đã có những chia sẻ xung quanh câu chuyện đào tạo và nghiên cứu của đại học Việt Nam.

“Nhiều công trình của giảng viên chỉ ngang tầm sinh viên Master” 

GS Lê Văn Cường từng giữ vị trí Giám đốc nghiên cứu cấp cao của “Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp” CNRS

Thưa giáo sư, ông nghĩ như thế nào về tình hình nghiên cứu của các trường đại học Việt Nam?

Tôi đã đọc khá nhiều công trình nghiên cứu của giảng viên các đại học kinh tế ở Việt Nam.

Rất nhiều trong đó chỉ ngang tầm những công trình của một sinh viên vừa tốt nghiệp năm thứ nhất (M1), hay năm thứ hai (M2) Master của các đại học kinh tế ở châu Âu.

Tôi không có con số tiền đầu tư vào nghiên cứu của Việt Nam. Con số đầu tư vào giáo dục ở Việt Nam là quãng 1% của GDP. Không phải là nhỏ so với con số của Indonesia, Malaysia (quãng 0,5%).

Nhưng câu hỏi đặt ra là hiệu quả của việc đầu tư ấy là như thế nào?

Hơn nữa, tham nhũng ở Việt Nam có làm giảm con số 1% ấy không?

Nếu có, con số thực là bao nhiêu? Nếu những lời đồn về con số tham nhũng (30%) là đúng, thì thật ra Việt Nam chỉ đầu tư quãng 0,7% GDP. Con số này không xa lắm con số hai nước trên.

Cụ thể hơn, về trình độ của giảng viên và việc đào tạo nghiên cứu sinh?

Tôi đã hướng dẫn luận án tiến sĩ cho một số giảng viên đại học của Việt Nam và theo dõi một số giảng viên khác trong quá trình làm luận án.

Một vài người (thiểu số) ra về hai bàn tay trắng vì không đủ can đảm đi tiếp khi nhận thấy trình độ kiến thức của mình quá thấp so với chuẩn các đại học Pháp.